An apology to Khái Hưng, 1896-1947
In 1975 I wrote a series of articles on Vietnamese literature and published them on the bi-monthly of Viet students in Sydney. I was the editor and manager of the journal, ran it as if in a delirium. The time was just after the change of regime in South Việt Nam, the forces from the communist North had won the war.
I missed the country that I had left nearly two years before, I missed the books I read there and would never see them again (communist cadres would burn them all within a year or two, as they had always threatened) – books belonging to writers I thought well of, many in first and only edition. The need to write something almost chocked me day in day out in April, May, in June, July … When you’re not even twenty, and the line in the sand had been drawn, clear, deep.
I wrote as if on a mission. Poetry and short stories – naturally, but research too. I started a series on Vietnamese literature, one essay every two months. I relied much on memories, on what I read until two years before. There weren’t many Viet books in Sydney. We were students, we were meant to visit the old country every few years, we were meant to return after graduation. We wouldn’t want to bring a library with us onto the plane on a scholarship adventure. And, true, all of us were students of technical subjects: engineering, science, medicine, economics. We wouldn’t have won the coveted scholarship had we planned to write a dissertation on Racine, Shakespeare, Nguyễn Du, Dickens, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Võ Phiến (or on the rising star half a world away, Alice Munro, unknown in the East).
But the memory was fresh, and I wrote without a care in the world. The writing, pen on paper, was easy, the typing on wax stencils by the manual typewriter was harder, and the printing, on the difficult roneo machine in the Union building of the university, was the hardest of all. The end production was always tricky for the eyes - the words playing hide and seeks whether in sunlight or bed lamps in those desolate rooms on campus or of the rented houses nearby.
Yet, what can I say, I enjoyed it. Mightily.
For one or another related reason I pulled the journals out recently, reread some of my research-memoir articles, and discovered that I still like them after all these years.
So perhaps I shall reprint them here without editing. I hope the digital guise (thanks to image-text conversion) will be a lot more legible than its roneo forebear almost fifty years ago. But before you read them, and because I won’t edit them, I wish to make a point: the sentiments and the feel in everything I wrote at the time, so long ago, are still with me today, except a matter below.
The matter is that I now feel I was somewhat too hard on Tự Lực Văn Đoàn from a literary viewpoint. It’s true that I didn’t enjoy their works in 1975 as much as ten years before when I was sub-teens and very early teens. That’s still true today (ie. I didn’t enjoy them as much etc.). But their achievements were huge and, as a group, perhaps more than any other groups or individuals (yes, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, included) at the time or even through the 50s and 60s. It’s true also that Nhất Linh was always political. I generally was and am with his political views, but somehow I felt his views had seeped too much into his later works (post 1954), distorting these. I didn’t quite like the “too much” bit, a personal thing.
But one could not fault the conduct of Khái Hưng, literary or otherwise, in any sense. One could not fault his output. Unlike Nhất Linh, Khái Hưng never intended to educate anyone. Khái Hưng wrote naturally, prolifically too, sure, but always with care, with kindness, with consideration. With idealism too, of course, but he never wanted to force himself upon others. Perhaps his works had become dated to me by 1975, by 1970, but that was, and is, besides the point. Yet I didn’t say so in my essays of those years. I should have made clear about my changing literary perceptions as time went by, because that applies to everyone. But I didn’t say so, specifically. I made out as if his works, their works, were not fine enough in the 1930s, 40s, 50s… That was plain wrong.
Thus I apologise to Khái Hưng. I am sorry.
I write these passages in order to apologise to him, because I treasured (and still do!) Khái Hưng as a person, a model of a writer with an ideal, as a writer who prepared a clear, broad and long path for those who come later, without being conscious of his “job”. A brave and affectionate pioneer. Because of that I loved him, as much as my Nga, my Madame Nga of “North-East”, had loved Khái Hưng.
We loved Khái Hưng because the French put him in jail, because the Viet communists killed him, in 1947 - put him in a sac, added stones, fastened the string, and threw him in the middle of the river. The deed that men do in the name of greed (greed for power, in this case), in the name of god, of ideologies, in the name of self. In the name of evil.
We, Madame Nga and I, loved Khái Hưng because we first read Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Trống Mái, Tiêu Sơn Tráng Sĩ … when we were young, so young, when we discovered the world in which words live, through him.
The older I became, the more coming across works of writers around the world, the more I, and my Nga, Madame Nguyễn Thị Nga, missed Khái Hưng, he of the 1930s and 40s and the glories of literary Hà Nội, glories in poverty under truculent French boots. We would like to wish him well wherever he is, we would seek him out when the time comes, we would share with him a glass of vino finer than first-growths from Bordeaux, and we, Khái Hưng and Nga and myself, three generations, shall discuss the finer literary points without prejudice, because we come to each other as light as things can be, feathers and electrons really.
Long Vo-Phuoc, late spring 2023 (and deep autumn in Hà Nội)
I reprint the below because I miss the young chap who wrote these passages nearly 50 years ago.
The passages were written in June 1975, reprinted here without being edited. Scans of the old ronéo pages are attached – “Tin Tức Sinh-Viên” (News of Students), Edition 1/12, Sydney June 1975, pp 31-41. Conversion from the scans to text was courtesy of Google Docs, but, because the ronéo print quality was atrocious, the tidying-up was quite a chore - although the Viet spelling in the original print was perfect.
The sentiments were true in May/June 1975. For same but by a contemporary, Madame Nga, on Khái Hưng et. al, see Chapter 9 of my “North-East”, link above. For further of same but thirty and forty years later, see Chapters 15 and 19.5 of the same book.
And above all, I repeat that I was wrong in certain manners of my comments on some of Khái Hưng’s books – see “An Apology to Khái Hưng, 1896-1947” above. I always hold him in the highest regards, always love him.
Hồ Hải Võ-Phước Long, Sydney, November 2023.
Sơ-Lược Về
VĂN-CHƯƠNG MÌNH BỐN MƯƠI LĂM NĂM NAY
-
Văn-chương tiền chiến: dạy-dỗ hay không dạy-dỗ
-
Văn-chương miền Nam: tìm kiếm đường về
Mấy tháng trước, tình cờ tôi đọc lại một truyện ngắn của Vo-Phiến. Một truyện ngắn cũ. Tác giả viết về những dao động tâm hồn người Việt sau hiệp định Genève. Cái dao động ấy như thế nào, tôi đã cảm dược nhiều năm trước. Mới vừa đây, nằm trong căn phòng xứ lạ, tôi vẫn còn cảm được. Ai ngờ đâu, bao nhiêu năm xa Việt-Nam, tôi vẫn hình dung được sự đa diện văn chương nước mình.
Văn chương đa diện. Đa dạng. Đa hình. Đa vân vân. Một đôi người tỏ vẻ dù bỉu khi nói thế: "Văn học gì mà lung tung cả lên. Chẳng có một chiều hướng nhất định nào cả". Toi đã hơi buồn khi nghe nói thế. Tôi không buồn vì tự ái dân tộc dân sinh gì cả. Tôi buồn, bởi vì người ta nhìn một nụ hoa bằng kính hiển vi. Đúng ra là một rừng hoa, có đóa nòi giống từ Tây Phương, có đóa nòi giống từ Viễn Bắc. Trội hơn hết và đẹp hơn hết, là những đóa từ chính tâm hồn người Việt mình. Cái tâm hồn, đôi khi, rất phức tạp, nhưng mà cũng chính cái tâm hồn ấy, đôi khi, rất thơ dại ngác ngơ.
Tâm hồn người mình nhiêu khê như thể, thì trách sao từ ngữ diễn tả lại đúng dùng một chỗ được. Nó lung tung cả lên. Nó loạn xạ cả lên. Thạch Lam lúc thì mộc mạc chơn chất một cách rất nhà quê trong “Dưới bóng hoàng-lan” (“Sợi Tóc”) tả chàng thanh niên nào đó về quê thăm người yêu bé bỏng, trăng trên cầu hai người, gió bên tai hai người, và tinh yêu trong lòng hai người. Nhưng cũng chính nhà văn này, trong “Đêm Trăng” (báo Ngày Nay, Hà Nội 1936-41), tả lại đôi tình nhân “yêu” nhau đến nổi cô gái chết, "môi nát trong cỏ uớt buổi sáng". Trước năm 1945, Thạch Lanm viết thể cũng đã bạo lắm. Điều lạ là, trong cùng một cây bút, hai lối dẫn ý lại ngược nhau như thế.
Trở lại vấn đề thắc mắc đầu. Văn chương chúng ta đa diện, lung tung. Điều này có thực không? Và nó có giá trị gì không?
Sau 1954, bút pháp các nhà văn miền Nam đã khác xa thời tiền chiến nhiều. Phải nói là họ đã dùng đôi hia bảy dặm và đi tứ phương tám hướng. Còn nhớ trong “Nhà Văn Hiện Đại” của Vũ Ngọc Phan, họ Vũ kết án Lê văn Trương đã lầm lẫn và thiếu kiến thức về văn chương trong tựa một truyện dài của họ Lê, “Một Người”. Theo họ Vũ, chữ "Một Người" không có khuynh hướng Việt-nam, nó Tây và nó lố bịch. Suốt hơn mười mấy năm, không thấy ai chống đối hay tỏ ý kiến. Cho đến khoảng 1960, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn bắn phát pháo đầu tiên vào thành trì công thức văn chương cũ. Họ Nguyễn viết: Chữ "Một Người" không có gì sai lầm. Nó còn mới nữa.
Nó còn mới nữa: Thì quả thực như vậy, một truyện ngắn của Mại Thảo có tên "Một Phiến Trời", “Phiến Trời” đã là lạ, "Một Phiến Trời” còn lạ hơn
Thế thì, một cách thực tâm và cổ xưa mà nói, văn chương không có quy chế rõ rệt. Văn chương hay nghĩa là văn chương đã đi thẳng vào lòng người. Thế thôi. Thế nào là văn Léon Tolstoi vĩ đại. Thế nào là truyện Kim Dung độc đáo. Biết đâu được. Căn cứ vào đâu mà nói khái Hưng tả tình yêu Quỳnh Như-Phạm Thái không xuất sắc bằng Roméo-Juliette?
Văn-chương tiền chiến: dạy-dỗ hay không dạy-dỗ
Đọc văn, người ta không thích bị dạy dỗ. Người ta thích đàm thoại nỉ non tâm hồn với cuốn truyện hơn. Những năm cuối thời Pháp thuộc, văn chương Việt-nam lần lần làm quen với đại chúng. Nhưng chỉ là đang ở giai đoạn làm quen. Nghĩa là còn khó lắm đấy. Nghĩa là chỉ một chút sơ hở đủ mất lòng độc giả mộ điệu. Khó khăn và nguy hiểm như thế, vậy mà có văn gia dám lên mặt dạy dỗ độc giả. Họ có thành công không?
Nối không thì rõ ràng sai sự thật, mà nói có thì chưa đúng hoàn toàn. Những văn gia thời 1930-1945, khi đã thấy được quyền lực trong cây bút họ, bèn làm một sự day dỗ rất đáng ca ngợi. Còn gì nữa mà không làm? Thanh niên suốt ngày thì mơ nộng yêu đương ở thành phố, hết “đổi mắt tiểu thư sáng như hai vì tinh tú trên trời" (Khái Hưng) thì “văng thân truy lạc vào bàn đèn" (Vũ Bằng). Dân chúng thôn quê thì mãi mãi chôn mình trong lũy tre xanh, tháng một giỗ ông, tháng hai giỗ bà, tháng ba tháng tư giỗ cha giỗ mẹ giỗ anh giỗ em, nay họp đình, mai họp chợ, cuối cùng xã hội mình thời dó bước đến một vũng lầy gần như vô vọng. Lai thêm người Pháp trút thuế xuống đầu dân đen mạnh hơn, bóc lột kỹ hơn. Hỏi thế thì sao người ta không dùng cây bút làm khí cụ giáo dục.
Vì vậy, tiểu thuyết luận đề lục tục ra đời. Nơi dây thì cô con dâu tân kỳ một hai nhất định đoạn tuyệt với bà mẹ chồng hung ác, với đời sống cũ cô không thể cảm được. Nơi kia thì đôi nhân tình mỗi người mỗi ngã, xa nhau ma “lòng hướng về nhau, làm việc giúp đỡ xã hội". Ngày nay đọc tiểu thuyết Tự Lực văn-đoàn loại này, ta hẳn phì cười và thờ ơ lắm. Vì họ lý tưởng quá. Nhưng ba bốn mươi năm trước sự xuất hiện của họ lạ lắm chứ. Người ta sùng bái sách họ, người ta chơi sách, người ta thảo luận, người ta coi họ như những ngôi sao Bắc-cẩu trên nền trời văn học đang cựa mình đòi lớn. Tên tuổi họ, quả thực, lên tới mức tuyệt đỉnh trong quần chúng. Ho có thực chất hay không, ta chưa xét vội.
Nhung còn các văn sĩ khác, thì sao ?
Họ vẫn làm việc đấy chứ. Họ vẫn yên lặng nhả tơ. Họ không ồn ảo giáo dục cải cách gì nhiều. Họ viết những gì họ viết được. Thế thôi. Có người thành công, văn chuong còn rung động độc giả miền Nam sau này, có người chỉ nổi tiếng một thời rồi thôi. Một số văn sĩ mở ra một trào lưu cho bước tiến sau này. Và cũng có người dựng cờ khai phá rồi hậu nhân chẳng bao giờ thực hiện nổi.
Thôi thì trăm hoa đua nở, người viết phóng sự xã hội, người viết tình cảm yêu kiều (Nguyễn Công Hoan...) người dựng nên một bước chân hoang mang cho văn chương (Nguyễn Tuân). Trường hợp ly kỳ của Vũ Trọng Phụng người ta vẫn còn nhắc tới. Những tiểu thuyết phóng sự của họ Vũ tả sự trụy lạc khốn nạn của dân trưởng giả, sự lầm than khổ sở của giai cấp nghèo khổ, tả cực hay. Tả cô Mịch (Giông Tố), từ lốt quê mùa ra vẻ thành phố ngây thơ vợ nghị Hách, tả như thế thì tuyệt luân. Tả chàng Long thất tình rồi chua chát hưởng trái cấm của một người con gái khác, đến múc đó thì nói toang cái sự thật mất lý tưởng của thanh niên miền Bắc buổi giao thời.
Đến Xuân Tóc Đỏ thì còn lạ lùng biết bao. Từ lúc hàn vi nhặt banh tennis cho các cụ lớn đến khi tiền rừng bạc biển tình yêu trong tay, lối diễn tả làm ta mường tượng một Vị Tiểu Bảo của tiểu thuyết Kim Dung. Xuân tóc đỏ có thể đểu giả, ác ôn, lừa bịp, nhưng căn cốt y vẫn có tính cách ngây thơ, vô tội vạ. Y làm việc sai mà nghĩ rằng đúng. Thế thì, một cách vô tình (hay hữu ý), họ Vũ đã chỉ trích xã hội thời đó. Đáng tiếc những năm sau ở miền Nam không ai viết được như văn sĩ. Hoàng hải Thủy thất bại, Chu Tử không xuất sắc, Thương Sinh thú nhận không đủ súc viết như họ Vũ. Bốn mươi năm, hẵn Vũ Trọng Phung dưới suối vàng ngậm ngủi than thở không có truyền nhân.
Tóm lại, họ Vũ chỉ vẽ lại cảnh xã hội. Bức tranh có thể vui hay buồn, rực rõ hay tang thương. Nhưng nó vẫn chỉ là bức tranh. Vi Huyền Đắc viết: Lối văn họ Vũ là lối văn trát bùn vào mặt người. Thương Sinh: Văn họ Vũ đắt giá gấp ngàn lần huấn dụ đạo đức. Ôi thôi, hàng chục hàng trăm lời phẩm bình.
Đến Nguyễn Tuân thì còn nói gì nữa. Từ không khí mơ màng kỳ dị thời cổ trong “Vang Bóng Một Thời” đến giác mơ lãng đãng của “kẻ sau này chết đi muốn da mình thuộc làm vali” (trong Tùy Bút, Một Chuyến Đi), Nguyễn Tuân viết, viết như ăn, viết như đi. Người ta đói thì ăn, họ Nguyễn buồn thì viết. Xã hội diêm dúa, xã hội bẩn thỉu, ông không cần. Ngòi bút văn sĩ này, kể từ Cao Bá Quát về trước và về sau, đã ở ngoài kềm tỏa của giáo điều, lề lối. Tả một anh chàng bị cắn rứt giữa gia đình và giang hồ, ta ngõ mình ở một bến tầu chia phôi nào, bên kia là bốn bờ bát ngát xa xôi, bên này là dây nhọ gia đình. Tả một công chức nghèo, ta ngõ trước mặt là bàn giấy, con số, mà tai thoảng tiếng xe lửa hú buồn rầu một đêm ba mươi quá vãng. Sau lưng là tình yêu thê tử, trước mặt là bóng tối hờ hững nời gọi. Đọc văn ông, ta thấy đầu óc đột ngột bâng khuâng. Không có gì cần thiết để phê bình nhận xét rút tỉa kinh nghiệm từ văn Nguyễn Tuân mà chỉ còn sự cảm động tâm hồn. Nó như chuyến xe cũ kỷ quê ngoại năm nào một đời người đã biết, như đôi mắt thiếu nữ xa xôi quá khứ trót trói buộc đời con trai.
Người ta bảo tiểu thuyết Tự Lực văn-đoàn đề xưởng chủ thuyết cá nhân. Nhưng những Đoạn Tuyệt, Nửa Chừng Xuân, Con Đường Sáng không so sánh nổi với tiểu thuyết Nguyễn-Tuân. Văn chuong Tự Lực bỏ đại gia đình để đi đến tiểu gia đình, bỏ bốn bức tường mái nhà hàng trăm năm để bước đến bốn bức tường khác, bốn bức tường xã hội. Còn Nguyễn Tuan bỏ gia đình để kiếm cá nhân đã mất, bỏ luôn xã hội để tìm những phương trời rộng hơn, bát ngát hơn. Đây phải chăng lý do bộ Giáo Dục miền Nam trước 1975 không đặt họ Nguyễn vào chỗ đúng chính của chương trình Việt văn?
Đừng tìm nội dung ý nghĩa từ văn chương. Hãy để nó tìm lấy. Hãy để mình thấm lấy. Nếu cứ muốn kiếm huấn điều, ý tứ cao siêu sao không lôi chồng sách triết dày của Lão Tử Trang Tử, của nhà Phật, của Kant của Russell ra đọc. Đừng hỏi: “Tác phẩm này nói lên điều gì?” Hồi gì thì kệ nó. Hãy dọc và hãy thưởng thức trước. Truyện Thúy điều của Nguyễn Du có hoa hòe cao siêu gì đâu mà bốn mươi triệu người mình say mê. Giáo điều chỉ sống một thời rồi chết. Còn nghệ thuật nguyên thủy thì vĩnh viễn bất tử.
Văn-chương miền Nam: tìm kiếm đường về
Sau hiệp định Genève 1954, người ta khao khát một ngày về, một đường về, hơi nhiều. Nhạc sĩ Vũ Thành sáng tác “Giấc mơ hồi hương“ thì thầm mơ đến ngày rực nắng trở lại Bắc, thì thầm nhớ đến đời sống rực rõ Hà Nội năm nào đang bị dày xéo. Đến Phan đình Chương thì “Mưa Sài gòn Mưa Hà nội” thực là bi hùng ca người em gái xõa tóc bên hồ Gươm tiếc nuối ngày tháng cũ. Nhớ quá. Tiếc quá. Có gì đau đón hơn một người rứt ảo, rứt quê hương, rứt người yêu “mắt như nước hồ thu” một sớm một chiều ra đi.
Mà hàng ngũ văn nghệ sĩ lão thàng miền Nam đều đã như thế. Đây là Võ Phiến u uẩn buồn rầu trong "Đêm Xuân Trăng Sáng”. Đây là Nguyễn Mạnh Côn đặt lại niềm tin bị dày vò phản bội trong “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”. Đây là Mai Thảo ngơ ngác trong “Người Đàn Bà Trên Ngọn Đỉnh Trời”. Còn Doãn Quốc Sỹ thì sao? Còn Vũ Bằng thì sao? Còn hàng chục người khác thì sao?
Ngay đến Thế Uyên, nhà văn nổi tiếng sau 1954, còn bâng khuâng tìm sự trở lại nữa là. Trong “Tiền Đồn”. Thế Uyên gảo thét người Việt tha hương ngay trên chính đất nước mình. Thê lương làm sao. Thì còn làng mạc miếu đình, thì còn con trâu đồng ruộng đó. Nhưng tâm hồn cũ bóng hình xưa nơi nao, còn bóng hình thiếu nữ ẩn khuôn mặt trái xoan sau một cành trúc nào đó, nơi nao. Còn con sông quanh co bên mái nhà xưa, nơi nao. Con gái Sài Gòn vẫn lả lướt đường phố mỗi khi đêm thứ Bảy xuống, mỗi chiều Chủ nhật, nhưng mà thôi rồi màu áo lụa Hà Đông cũ. Người ta bây giờ khoác áo bằng lụa Vọng Các lụa Nhật Bản, lụa Pháp lụa Anh. Thế Uyên bèn trở về bằng yêu đương, bằng tình nhân. Cô tình nhân trong chiếc áo pullover trắng và quần Tây màu nồng nàn dường như không thỏa lòng mong đợi của văn sĩ. Bởi thế trong vô số truyện ngắn Thế Uyên, người ta bàng bạc nghe tác giả tâm sự về một căn nhà, về một ngôi vườn biệt lập. Giấc mộng đắp lên trong hai mươi năm, đến 1975 thì đỗ vở.
Trường hợp Doãn Quốc Sỹ còn bi đát hơn. Nhân vật Quỳnh Lương trong “Thu Rừng Lau” rời miền Bắc. Tử nhan sắc mộc mạc quê hương, nàng đổi mới một cách dị kỳ. Nàng vận đồ Tây. Nàng đóng phim. Nàng cười đùa. Nàng ca hát. Nàng hòa mình vào thành phố mới, môi trường mới để sống. Nàng sẵn sảng nói chuyến thân mật với người ngoại quốc, đôi khi còn “yêu một cách thành thật” nữa. Họ Doãn cố gắng cho chúng ta thấy tinh thần đoàn kết và bất phân địa phương của ông. Nhưng sao văn ông còn chua chát và ngập ngừng lắm. Có chút cả giả tạo và ngượng ngập trong đó. Thái độ Trang Chu của ông hình như chưa vững vàng và còn nhiều hoang mang. Con người sống, không phải chỉ để tranh đấu và đi tới, nó còn nằm xuống và mong nhớ dĩ vãng nữa. Mà hình như, người Việt chúng ta chưa ai có một dĩ vãng hoàn toàn rực rỡ, dù là những kẻ sáng tạo văn thơ.
Nhưng rồi người ta không thể mãi mãi tìm đường về quê hương được. Làm sao để tâm hồn bớt trống trải, đó là nỗi khổ lớn lao. Người văn người thơ bắt đầu dùng dục-tình làm đề tài viết, làm đề tài trở về. Duyên Anh viết "Văn-chưong hôm nay tàn bạo và dục tính khôn lường” qua lời một nhân vật truyện ngắn. Và Chu Tử thể hiện mạnh thẳng yếu thua trong Loạn, Sống, Tình, Tiến. Truyện Dương Nghiễn Mậu và Nguyễn Đình Toàn phỉ bán những giá trị cũ, ca tụng lỏng hoài nghi con người bằng “Con Đường”, Ngày Lạ Mặt” và "Ngày Tháng”.
Tân truyện “Ngày lạ mặt” của họ Dương là bước đi thật lạ và táo bạo trong kỹ thuật hành văn lẫn nội dung. Truyền được viết bằng thể nhật ký xen lẫn thuật sự. Ở cây ông đào sâu tình yêu hoang mang của một nữ sinh và giáo sư của cộ. Người thầy tuổi đã trung niên, lại còn có vợ có con. Người học trò sau khi thất thân với thầy, ra toà, buồn bã. Yêu nhau giữa thầy trò thì chẳng có gì đặc biệt. Ân ái trong tình yêu cũng chẳng có gì đặc biệt. Điểu đáng buồn là cô nữ sinh trung học yêu thầy, một phần vì tình yêu, một phần vì muốn phi báng phá vỡ truyền thống đạo đức cũ kỷ của xã hội chúng ta. Phong tục ràng buộc của người Việt bi thảm và vi kỷ đến thế ư? Xã hội đưa con người đi vào tù túng, vây bọc, muốn phá vỡ muốn đổi mới, cô bé nữ sinh đành tìm con đường duy nhất: hủy hoại tuổi trẻ của mình. Gẩm đến cùng, thì xã hội của mình cũng đến phi lý. Bao nhiêu trường hợp dụ dỗ gái vị thành niên, đưa nhau ra tòa, đưa nhau tìm cõi chết thì chẳng ai cần để ý. Nhưng trường hợp thầy trò thì náo động thị phi cả lên. Thầy cũng là người. Mà trò cũng là người. Vậy ai xét xử họ? Xã hội dư luận chăng? Con người xét xử nhau về một chuyện không đâu như thế, thì không phỉ báng và chán nản, sống để làm gì? Chán quá.
Chán quá. Đó là điệp khúc được nhắc lại nhiều là trong “Ngày Tháng” của Nguyễn đình Toàn. Cặp nhân tình trong truyền hết ăn rồi ngủ rồi làm tình, hết đi ra phòng rồi vào phòng, hết đi tù rồi thăm nuôi, hết người Việt này rồi người Mỹ khác tìm cách tán tỉnh nhân vật nữ. Sự hành văn của họ Nguyễn được thực hiện với mục đích làm người dọc chán hơn. Đời sống cứ lê thê kéo dài như thế. Đường về không mất vì không có đường về. Bước tới thì không có gì để bước. Người ta đứng dừng như thế. Đúng dừng không như Lão Tử ngày xưa. Đúng dừng với tâm trạng muốn bước tới mà không được. Hiện sinh như thế này, không khác Sartre Tây-phương bao nhiêu.
Sao không như “Một Mình” của Võ Phiến. Cung hiện sinh đấy. Nhưng mà với tinh thần Đông-phương, tinh thần Lão Trang, tinh thần “biết đủ là đủ”. Cũng đi ra đi vào, đến sở làm, tán tỉnh đàn bà lăng nhăng, hết đọc sách rồi đến hút thuốc, vậy mà tác giả viết đến hơn ba trăm trang, vậy mà độc giả đọc không biết chán. Họ Võ viết văn hay chăng? Hay vì cái tâm hồn dịu dàng khả ái của phần lớn của người Việt? Không biết.
Sau thời kỳ chán nản và hủy hoại, văn chương miền Nam đến một khúc quanh kỳ quái và khó nói khác, ờ những năm 1972-1975. Họ cũng tìm đường về. Họ, phần lớn ở đây là những văn gia vừa mới xuất hiện (tôi xin nhấn mạnh chữ "xuất hiện”; không phải nổi tiếng). Đường về, ở cây, là đường về “thơm ngát và rực rỡ” của tình yêu. Suy tôn tình yêu bằng nhiều cách và nhiều kiểu mẫu. Kiểu tình yêu “thắp cánh bay cao” của những văn sĩ dậy thì. Tình yêu "suy tư và mỏi mệt” của những văn sĩ lớn hơn dậy trì, đủ vẻ đủ màu. Tên tuổi các nhà văn này thường là : Từ Kế Tưởng, Đinh Tiến Luyện, Nguyễn Yêu, Lệ Hằng, vân vân và vân vân. Khảo luận gia Nguyễn Mộng Giác, trong Bách Khoa Xuân Ất Mão 1975, đã viết:
“Không một chút chua chát, ta có thể tóm tắt tính chất sinh hoạt sáng tạo văn học trong năm 1974 trong hai chữ: tình và tiền.”
“Cả thơ lẫn truyện trong một năm qua đồng loạt ca ngợi tình yêu, từ xao động thơ ngây của các bé 14, 15 cho đến các loại tình hận, tình sầu của các thiếu phụ hồi xuân. Riêng phần tiểu thuyết, đã đến lúc xảy ra một hiện tượng lạ lùng: độc giả gần như không cần biết tới tên tác giả. Chỉ cần cuốn truyện có khổ bé bỏng vừa tầm lòng bàn tay “bé”, chỉ cần tranh vẽ có mắt nai và tóc mây, chỉ cần nhan đề có cái tên "tình yêu, đôi ta, nỗi nhớ, người thương". Còn tác giả là nàng Lê hay chàng Lý, Đạt Cô-Đơn hay Vân Cô-Độc, cũng được. Độc giả Việt Nam khao khát tình yêu như vậy sao, đến cái độ chấp nhận bất cứ loại tình nào, bất chấp nguồn gốc và chất liệu của nó?
“Liên minh với tình, là tiền. Hỗ trợ cho loại sách cung cấp tình yêu đủ màu đủ vẻ, là hoạt động ấn loát chú trọng đến thương mãi, và hầu như đó là ưu tư duy nhất của các nhà xuất bản.
“Tình yêu đã tràn lan lấn át phần ý thức, dù là ý thức về xã hội hay ý thức về triết lý, lịch sử. Thương mại đã tràn lan và lấn át phần nghệ thuật vào phần đất hẹp khiêm nhượng và lẻ loi. Nghệ thuật càng ngày càng trở thành một ngành chuyên môn, chỉ đành để "phổ biến trong vòng thân hữu" ".
Thế thì rõ rệt, văn chương miền Nam đang tuột dốc, tuột như bay, không riêng năm 1974 mà cả từ 1972 cho đến tháng Tư 1975. Tháng Tư 1975, nền văn chương miền Nam cần được đóng lại để chuyển sang giai đoan mới (?!). Từ 1954 đến 1975, văn chương miền Nam còn rất nhiều liên lạc với văn chương miền Bắc trước 1945 (mà hình như, sự-kiện này không xảy ra cho văn chương miền Bắc 1954-1975, vì sao?). Tôi mong ước, rất mong ước, được thấy sự hiện diên Việt Nam sau năm 1975. Ai viết, và viết ở đâu, nhũng điều nầy vẫn làm tôi bàng hoàng.
Một bài viết về văn chương Việt-nam cân và hiện đại như thế này, tưởng còn sơ lược lắn. Tôi xin hẹn số Tin Tức Sinh Viên tới, được thời giờ và điều kiên viết thêm. Một khía cạnh đáng để ý là sự anh huồng của ngoại quốc trong văn chương hình. Xin hẹn lần sau, và xin cám ơn độc giả bài viết này.
Hồ Hải June 1975, Sydney
(Hồ Hải Võ-Phước Long)
“Tin Tức Sinh-Viên” (News of Students),
Edition 1/12, Sydney, June 1975, pp 31-41






In Memory of Nguyên Sa: a Question (cont. from 30/8 post)
I had always wanted to ask Nguyên Sa: was it great fun to have gone home and done things?
In 1955 Nguyên Sa was young. Europe was young again. War was over a few years past. East and West of the Rhine shook hands and wanted to rebuild their proud tower* a second time round. A land rejuvenated, as such, and a poet like Nguyên Sa with sunlight in his mind would do quite a lot worse going elsewhere, "home" or otherwise. His talent would flourish in Paris and the world would become his oyster.
Quite probable a scenario, but revitalised Europe aside Nguyên Sa in 1955 simply wanted to go back to his own homeland at the opposite end of the globe. Nguyên Sa was "a blood vessel that could not flow outside its arteries". Nguyên Sa wanted to write in Sài Gòn where there was more excitement than Paris could ever muster. Nguyên Sa wanted to run, along with like-minded comrades of the pen, literary newspapers by which they’d bring forth the winds of change to Viet Nam, and with such winds in their hair they would lead a new moral and intellectual life for the young nation. Nguyên Sa wanted to walk the streets of Sài Gòn and shouted to everyone that life was worthwhile to live, and even if it's hot and humid he would still find a cool note of poetic music in the blue shade of Hà Đông silk. Let us write and publish, he would say, our very fresh and best pieces (indeed very fresh and as good as anything written worldwide in the era). Let us call to arms**, he would say, and get rid of the old prejudices, of the cruel exploitation of the former French rule, of the sinister hard-heartedness of the menace from the North. Let us start a new life, build things, and live productively with a clear and big heart.
Nguyên Sa treasured his homecoming, because for at least the next ten years his poetry was relentlessly produced at the highest order. Those he wrote by 1955 were among the most evocative of the time, East or West, culminating with "Paris". Those thereafter continued the same vein – the unforgettable “Mời” (Invitation) among many others.
But life in South Viet Nam was to become a more vicious economic and political animal than Nguyên Sa and his mates at Hiện Đại and Sáng Tạo scribers' rooms could fathom. To be happy, one must eat, to eat, one must construct, to construct, one must stop bickering and butchering and shoveling goodies into the black hole on one's own face; years after years.
One couldn't. A fractional war between “brothers” here, a treacherous internal squabble there, on and on. Coup after bloody coup. Despot after lousy despot. Corruption piled on dirty corruption - after all, there was simply so much money supplied by the Americans.
The North too was happy to kill, and to kill more – agricultural “reform” proceeded in every which brutal way. Corruption overwhelmed the senses. There was scarcely any money from big brothers China and the Soviet so the comrades harboured design, justified or not, on the rich land southward. Thus the North marched. And America, too, marched.
Twenty years on and Nguyên Sa, Sài Gòn no longer his, was on the move again in 1975, back to his other “homeland”, Paris, no wind in his hair this time, no fire in his heart. In the emotional anguish of life that ensued I wonder if he ever pondered the end result since those dreamscape days of 1955. Why the Germans were able to drop arms and regenerated from total collapse (admittedly all West of the Elbe and none but prisons and the Wall due East) but the South and North of the Bến Hải couldn’t? Ironies, differences and extenuating circumstances abound, it is true, but isn't it hard to escape the glaringly obvious. One side of the world replaced past bloodshed with tangible efforts; for the other: bloodshed roughly plastered on by further bloodshed and institutionalised corruption.
My dear Nguyên Sa, was it all a bit disappointing to put it gently? What would you have turned out had you stayed on in 1955 Paris (and if you didn’t like the French's brutal oppression of African Algerians, well you could simply go on to neighbouring Amsterdam ... Zurich ... West Berlin ...)? Would you have one day translated your poetry into French? Would you have, tortured with an exiled life away from a tortured homeland, written even greater and more prolific works? Your lines in 1955 transcended time and language barrier, and who would not wish for more?
May peace be with you on the other side of the Styx. We shall meet one day and you can then let me know how much you dislike my translation of your "Paris". I’ll bring along a decent bottle of wine and let's perhaps discuss poetry without prejudice.
Long Vo-Phuoc, December 2014.
Notes:
* The Proud Tower, Barbara Tuchman, 1966.
"... a blood vessel that could not ...": Paris, Nguyên Sa, 1955 (my translation).
** from Lu Hsun’s Na-Han, 1923.
Nguyên-Sa Trần-Bích-Lan, 1932-1998: Viet Nam, 1932-49; France, 1949-56; South Viet Nam, 1956-75; France, 1975-78; US, 1978-1998. Selected works: Tho Nguyên Sa (Poetry), 1958; Mot Bong Hong cho Van-Nghe (A Rose to Arts); Hoi-Ky (Memoir). An outstanding, and certainly the most appealing, poet of Viet Nam. Thanks to those like Nguyên-Sa Viet Nam until 1975 punched well above her weight on the world stage in literature - long years of bloodshed notwithstanding.
Long Vo-Phuoc.
© All rights reserved.
In memory of Nguyen Sa: Paris and autumn ...
Imagine it was mid-1950s. Two countries, France and Viet Nam. Two cities, Paris and Sai Gon.
Two words spring to mind: hope and departing. Of course hope must have come first. Because of hope one had to leave. From one place, a lovely place that didn’t belong to one, to another, a place of memory, of familiar faces, but also of treachery, of failures and defeats (much of which truculently caused by one place onto the other, let there be no doubt), yet, shall we say, of paramount excitement.
And if one was 22, 23 and a budding poet?
(I am twenty-odd years behind that young man. Twenty years later there would be an opposite reality. There would be no hope and no departing for home – only despair, transient or otherwise.)
Is that how I now imagine of Nguyen Sa as a young chap? A young chap who perhaps was nerdy, at the time emaciated like most students, wide-eyed, somewhat spoilt by his family half a globe away. A chap like that, university time just over, a million things must be decided upon. What did a chap like that do on a late morning when it drizzled? As today, October - or was it July ...
Let’s walk, shall we? Let’s walk a little, this end of the street to the other. We are quite lazy by force of nature, we take things a few minutes at a time. We walk from St Mich, and we shall rest when it reaches the river vista, ahead.
One walks, and one thinks. One thinks of, say, what the young girl ahead of one, with her bright little umbrella, hair somewhat moist and fuzzy like a halo in the darkened light of a misty morning – a girl presumably with a face of an angel, lips and cheeks and eyes full of heavenly promises; what a young thing like that would have in mind ....
That would have been the young man’s first thought, naturally. Next: why would one feel melancholic on this walk, on this day, a quite pleasant feeling that surely did not come from breakfast which consisted solely of cafe au lait; a feeling that exists simply because this is the mid-50s the existential years; because one is a young 20s who will be disappointed in and with life, who will struggle to make a living and perhaps come to nothing that is monetarily important. One, such as that young man, one has this feeling ... but oh look, she is now turning into rue des Ecoles. But we will soon see another ahead with another umbrella, or perhaps caught in the rain without an umbrella, cotton dress clinging to translucent and transcendental skin. Let’s make “a step to the left” into St Germain, shan’t we ...?
And suddenly one remembers, no umbrella for self here either, shirt is stuck to the upper arms, a little chilled ...
A misty morning in October. Autumn. 1955. Paris. Further on is tour Eiffel. The Seine would be silvery today. Such a misty morning. Such a misty October morning. Such a misty mind ....
Let’s write about it then. We write, and we entitle it .... Paris, with a flowery P like the start of a girl’s name ......
........
(This is a work in progress – the forming of that young Nguyen Sa in my mind and, with it, much reflection et cetera. But for now, let’s rest and reread what he wrote, Paris, below. And below that, my translation of it into English. That too is a work in progress, as always: to translate is to betray, to translate poetry is to betray a thousand times over. We humans do bad things in life; so such a thing, betraying a poet’s most powerful and dynamic piece, is quite a lesser evil deed in comparison. Some lines and their nuance and “break” are beyond decent translating (“ Nhưng cũng sợ phải viết những lá thư xanh về xứ Đũa son” ... “vì những ngón tay tô đỏ màu đũa son ... đang muốn gắp cả đời người hạnh phúc”), but well ... .)
Long Vo-Phuoc, October 2012
© All rights reserved.
Paris
Nguyen Sa, 1955
Mai tôi ra đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào cũng phải xa nhau ...
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn
Paris sẽ nhìn theo
Nhưng nhìn thì nhìn đời trăm nghìn góc phố
Con đường dài thẳng mãi có bao nhiêu
Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Giòng sông Seine đang mặc áo sương mù
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa
Dù hôm nay giữa một ngày tháng Bảy
Chiếc tháp ngà đang ướt rũ mưa ngâu
Sông Seine về chân đang bước xô nhau
Sẽ vịn vai ai cho đều giòng nước chảy
Dù mai kia
trong đêm quá khuya hay một ngày sớm dậy
trên một con đò , bên một góc phố ,
dưới một luỹ tre
tôi sẽ ngồi kể chuyện nắng chuyện mưa
và có lẽ tôi sẽ kể chuyện Paris
để khói thuốc xám trên môi dăm người bạn
và trên môi tôi
điếu thuốc sẽ run trên những đường cong lận đận
điếu thuốc sẽ run như chân người vũ nữ vừa quen
đôi chân người mà tôi không dám nhớ cũng không dám quên
còn quay đảo giữa điệu nhạc mềm như khói thuốc ...
tôi sẽ hỏi trong những chiều giá buốt
những chiều mưa mây xám nặng trên vai
người con gái mắt xanh màu da trời
trên áng mi dài có quanh co tuyết phủ
Rồi cả người
cả Paris nhìn tôi qua một nụ cười nhắn nhủ
nụ cười mềm như nắng của cuộc chia ly
của một buổi sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đi
những thùng rác bắt đầu cọ vào nhau
với những tiếng kêu của một loài sắt lạnh
như những tiếng kêu của những chiếc đinh khô , những mình búa rắn
của những đôi mắt nhìn theo
và tôi cũng nhìn theo
không biết người ta vừa khâm liêm mình hay khâm liệm một người yêu
Dù người yêu không phải là người con gái có mớ tóc vàng
Nhưng cũng sợ phải viết những lá thư xanh về xứ Đũa son
Nên tôi không dám hỏi :
tại sao mắt em buồn
tại sao má em đỏ
tại sao môi em ngoan
vì những ngón tay tô đỏ màu đũa son
đang muốn gắp cả đời người hạnh phúc
Và cả tôi cũng vẫn nghẹn ngào trong mỗi lần nói thật
mỗi lần nghe Paris hỏi tôi :
tại sao anh về
tại sao anh không ở ...
Nhưng dòng máu không thể chảy ngoài huyết quản
dù tôi yêu Paris hơn một người bạn yêu một người bạn
hơn một người yêu yêu một người yêu
Dù đêm nay tôi vẫn làm thơ
dặn những người con gái nhỏ đi về
trên hè phố Saint Michel
gò má đỏ phồng bánh graffen
để những hạt đường rơi trên má
lau vội làm gì cho có duyên
Dù đêm nay những người yêu nhỏ vẫn đi về
vẫn đôi mắt nhìn lơi lả hở khuy
cặp môi nghiêng trong một cánh tay ghì
mỗi chuyến me'tro qua vồi vội
giòng Seine cười ngoảnh mặt quay đi
Dù đêm nay tháp Eiffel
Vẫn kiễng mình trong sương khuya
nhìn bốn phía chân trời
Và đôi mắt tôi
Vẫn tìm đến trong một giờ hò hẹn
Và từ mai trên những lá thư xanh
tôi không được bắt dầu
bằng một chữ P hoa
như tên một người con gái ...
Nguyen Sa, 1955
Paris
Nguyen Sa, 1955, translated Long Vo-Phuoc, 2012-14
I’m leaving tomorrow, and rain will surely fall
Will surely fall fast
Rain or no I shan’t hurry my steps
But however delayed we still have to part our way ....
I’m leaving tomorrow would Paris be grieving
Would Paris gaze on
But however one gazes – life of a thousand street corners
how much further a road can go on
I’m leaving tomorrow even as autumn comes today
The Seine curls in silky mist
watches the departing through silvery glints
and yellows leaves show off luxuriant memory lanes
And even if today in midst of a July
The ivory tower soaks in nuptial rain
Seine comes back in rushing steps
whose shoulder to lean on to even the flows
Even as one day
when midnight has past when morning soon comes
on a ferry, by a shop corner,
under a bamboo canopy
I shall rest and tell tales of sunlight and raindrops
and perhaps I recount Paris
so that tobacco smoke browns the lips of friends
and on my lips
a cigarette shall tremble the struggling rhythm of life
a cigarette shall tremble as the feet of a dancer once befriended
the feet of one I daren’t remember nor forget
twirl in music silky as smokes
and I shall ask in the coldest of evenings
in afternoons when heavy grey clouds weigh on shoulder
the dancer with sky-blue irises
and snowflakes curl on long eyelashes
And the whole body
The whole of Paris looks on through a beckoning smile
a smile gentle as sunlight of a farewell party
of an early morning when garbage collectors begin work
bins crushing on each other
sounds of cold steel
of dry nails, of hard hammers
of eyes that look longingly
and I shall look on
not knowing if in those eyes one has just been buried or was that one’s beloved
Even if the beloved is not a girl with masses of blond hair -
... and loathing to confess in those letters in blue to the land of red chopsticks
daren’t ask:
why your eyes are blue
cheeks are scarlet
lips beguiling -
because those fingers with nail varnish the colour of chopsticks’ red
would clutch one’s happiness of a lifetime
And I would choke in moments of truth
every time Paris asks
why must you leave
why don't you stay .....
But a blood vessel cannot flow outside its arteries
even as I love Paris more than a friend loves a friend
more than a lover loves a lover
Even as tonight I still write poetry
counseling the little darlings going home
on Saint Michel boulevard
girls with cheeks reddened by graffen biscuits
grains of sugar falling both sides
never hurry to brush them away
Even as tonight the young lovers going home
eyes still lock in eyes and buttons tartly undone
lips oblique in arms tenderly crushed
the metros pass on rapid
the Seine smiles and turns away
Even as tonight the Eiffel
gracefully twirls in night dews
scanning four corners of the horizon
And my eyes
still searching for the hour of a rendezvous
and from tomorrow on those letters in blue
I no longer can start with
a capital P
as for a girl’s name ......
Nguyen Sa, 1955 – translated Long Vo-Phuoc, 2012-14.
© All rights reserved.